Bạc biên bị mòn làm tăng khe hở giữa bạc và cổ trục, dẫn đến lượng dầu phun ra vượt quá giới hạn. Khi khe hở dầu tăng gấp đôi, lượng dầu phun ra tăng xấp xỉ 5 lần so với khe hở bình thường. Khe hở tăng gấp 4 lần bình thường, dầu phun tăng khoảng 25 lần so với mức bình thường. Trục cơ quay làm cho dầu phun ra tuần hoàn. Nếu mức phun dầu quá nhiều, các xéc măng dầu không gạt hết, làm dầu lọt vào và bị đốt cháy trong xilanh. Bạc mòn còn làm xuất hiện tiếng gõ. Vật liệu làm bạc trục kém, dầu bôi trơn không đủ, động cơ quá nóng, máy thường xuyên quá tải, những sai sót khi gia công cơ khí là những nguyên nhân làm tăng tốc độ hư hỏng bạc đỡ.
Cách kiểm tra bạc biên
Kiểm tra độ mòn của bạc, nắp bệ đỡ và nắp biên, các khe hở đầu lớn và đầu nhỏ. Các bulông đai ốc kiểm tra tình trạng ren. Lỗ đầu ở biên và ổ bạc phải thông, không bám than.
Bạc biên bị mòn, xước, rỗ, bị ăn mòn hoặc có dấu hiệu mỏi sẽ thay mới. Các bạc bị mỏi, kim loại bị phá vỡ sau một quá trình làm việc trục trặc và chịu tải nặng ở nhiệt độ cao. Nếu một cặp bạc lót có hiện tượng mỏi, phải thay toàn bộ bạc lót của động cơ. Kiểm tra mặt của bệ đỡ bạc lót bằng thước ống lồng và pan me, tiến hành đo độ côn, độ méo, nếu độ méo vượt quá 0.05mm phải thay tay biên.
Kiểm tra khe hở bằng thước ống lồng và pan me: Văn chặt nắp có lắp bạc lót vào thân biên có bạc, theo đúng mômen xiết quy định. Dùng thước lồng đo để xác định đường kính lớn nhất và kiểm tra lại bằng pan me. Tiếp tục, đo đường kính và các cổ biên để xác định các kích thước và tính độ mòn côn, méo. Độ méo không quá 0.036mm, mòn côn 0.025mm. Sự khác nhau giữa đường kính của bạc lót và cổ biên tương ứng là khe hở giữa chúng. Nếu khe hở vượt quá 0.037mm phải thay bạc lót hoặc biên.
Đo bạc biên
Đo bằng đoạn thước mỏng: Để kiểm tra khe hở bằng thước trên, dùng một thước lá dày 0.038mm dài 18mm, rộng 6mm, nhúng dầu và đặt nó vào giữa cổ biên và bạc lót song song với trục cơ. Đặt nắp và xiết chặt. Nếu khe hở đúng, quay trục cơ bằng tay có cảm giác nặng hơn khi không có mẫu thước bên trong. Nếu không cảm thấy nặng chứng tỏ khe hở đã vượt quá. Thay các đoạn thước cho đến khi quay nhẹ, sẽ được kích thước khe hở chính xác.
Đo bằng thước dẻo (kẹp chì): Thước gồm các miếng chất dẻo (hoặc chì) mảnh như sợi chỉ có đường kính vài % mm, mỗi đoạn có thể đo khe hở chính xác đến phần trăm milimét. Trước khi đo, lau sạch dầu ở bạc lót và cổ trục vì chất dẻo có thể hòa tan trong dầu. Để kiểm tra khe hở bạc, đặt một đoạn thước chất dẻo vào giữa bạc và lắp vào cổ biên, xiết chặt nắp đến lực qui định. Bề dày của mẫu thước chất dẻo lớn hơn khe hở, thước sẽ bị dàn mỏng ra. Không quay trục cơ khi đo. Tháo nắp biên và lấy mẩu thước dính ở bạc hoặc cổ biên. Kiểm tra lại thước,chiều rộng của mẫu thước được dát mỏng chính là khe hở bạc lót và cổ biên.
Đo khe hở bằng phương pháp kẹp chì
Đo khe hở dọc trục: Lắp biên trên trục cơ đẩy biên về một phía cổ, kiểm tra khe hở dọc ở phía má biên biên kia bằng thước lá. Ở động cơ xilanh thẳng hàng, khe hở trong khoảng (0.1 – 0.25) mm, khe hở vượt quá phải thay biên. Ở động cơ chữ V với các tay biên lắp cạnh nhau, khe hở dọc trục 0.18 – 0.36mm, vượt quá 0.36 mm phải thay biên.
Thay thế: Nếu cổ biên mòn quá 0.075mm, và độ côn, méo còn trong giới hạn cho phép, lắp bạc lót phụ đảm bảo đúng kích thước, đạt khe hở quy định như sau :
Đường kính cổ
biên (inch)
Khe hở quy định
Khe hở cho phép
lớn nhất (giới hạn mòn)
2 – 23/4
213/16 – 31/2
0.0005 - 0.0015
0.0015 – 0.0025
0.0035
0.005
Khi độn mòn côn, méo vượt quá giới hạn cho phép, cổ biên cần mài tới kích thước dưới tiêu chuẩn và lắp bạc lót phụ đã doa đúng kích thước yêu cầu ổ đỡ của bạc biên. Ổ đỡ đúc các kích thước tiêu chuẩn 0.25; 0.5; 0.75 và 1.5mm dưới tiêu chuẩn.